Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

Bài thuốc trị đái tháo đường bằng đông y

 Trong những năm gần đây, đái tháo đường và các biến chứng của nó đã và đang có xu hướng gia tăng và thực sự đã trở thành mối lo ngại trên phạm vi toàn thế giới. Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu những nét cơ bản nhất về Đông y trị liệu đái tháo đường để độc giả có thể tham khảo.

Khái niệm đái tháo đường trong đông y

Biểu hiện chủ yếu của đái tháo đường người xưa gọi là “tam đa, nhất thiểu”, nghĩa là ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều và sút cân nhanh. Về trị liệu, cổ nhân thường lấy biện chứng “tam tiêu” làm cơ sở, nghĩa là phân chia thành 3 thể: thượng tiêu (phần trên cơ thể, gồm tâm và phế), trung tiêu (phần giữa cơ thể, gồm tỳ và vị) và hạ tiêu (phần dưới của cơ thể, gồm can, thận, tiểu trường, đại trường và bàng quang).

Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh đái tháo đường trong đông y

Theo cổ nhân, tiêu khát phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như bẩm thụ tiên thiên bất túc, ẩm thực bất điều (ăn uống bất hợp lý), tình chí thất điều (yếu tố tâm thần kinh), ngoại cảm lục dâm (yếu tố môi trường, nhiễm khuẩn), cửu phục đan dược (dùng thuốc bất hợp lý), trường kỳ ẩm tửu, phòng lao bất điều (tửu sắc và lao lực quá độ)... Các nguyên nhân này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm rối loạn công năng các tạng phủ, trong đó đặc biệt là ba tạng: tỳ, phế và thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát.

Nguyên tắc trị liệu đái tháo đường bằng đông y

- Điều trị toàn diện, nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất. Toàn diện nghĩa là: (1) trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng phủ bị bệnh trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng phủ khác; (2) sử dụng tổng hợp các biện pháp: dùng thuốc và không dùng thuốc, thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng sinh...

- Biện chứng luận trị, nghĩa là phải căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng cụ thể và giai đoạn bệnh, đặc điểm về thể chất, giới tính, tuổi tác... của từng người bệnh mà lựa chọn thuốc và các biện pháp trị liệu cho phù hợp.

- Chú ý vận dụng các liệu pháp có tính tự nhiên như dược thiện (món ăn – bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh... Nguyên tắc này dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất”: con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ tự nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên.

Phương pháp cụ thể đái tháo đường bằng đông y

Có thể chia làm hai biện pháp lớn là dùng thuốc và không dùng thuốc

Dùng thuốc: Thường theo 3 phương thức biện chứng luận trị, chuyên bệnh chuyên phương và vận dụng kinh nghiệm dân gian.

- Biện chứng luận trị: Tùy theo từng thể bệnh mà lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp. Ví như: với thể táo nhiệt thương phế biểu hiện bằng các triệu chứng phiền khát, uống nhiều, ăn nhiều, họng khô miệng táo, tiểu tiện nhiều lần, đại tiện táo, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô... thì chọn dùng bài thuốc Tăng dịch thừa khí thang gia giảm; với thể thận âm khuy hư biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, tiểu tiện nhiều lần, đầu choáng mắt hoa, tai ù, tai điếc, hay có cảm giác sốt nóng về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, đổ mồ hôi trộm, họng khô, miệng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ không có rêu... thì chọn dùng bài thuốc Tả quy hoàn gia giảm, với thể tỳ hư đàm trệ biểu hiện bằng các triệu chứng người béo trệ, hay chướng bụng, ăn kém, chậm tiêu, đầu nặng, tay chân rã rời, lưỡi bệu có vết hằn răng... thì chọn dùng bài thuốc Hoắc phác hạ linh thang gia giảm...

- Chuyên bệnh chuyên phương: Là phương pháp sử dụng một bài thuốc cố định dùng chung cho tất cả các thể bệnh, cũng có thể gia giảm nhưng số lượng không nhiều. Ví như: Ở Trung Quốc, các nhà y học cổ truyền đã nghiên cứu và xây dựng hàng chục phương thuốc trị liệu tiểu đường khác nhau như: tiêu khát linh, thủy điệt tam hoàng thang, giáng đường tụy phúc khang, phức phương tam tiêu thang, ích khí tư thận thang, sinh tân ngọc dịch cao, giáng đường kháng niêm phương, bối qua ẩm, ích nhân đường, giáng đường ẩm II... Thực chất, đây là phương pháp trị liệu theo phương thức “biện bệnh luận trị”.

- Vận dụng kinh nghiệm dân gian: Đây là phương pháp trị liệu thường rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ tiền và có hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm trị liệu tiểu đường trong dân gian là rất phong phú nhưng chưa được chú ý đúng mức và khai thác hết. Ví như: dùng lá ổi, rễ cây dâm bụt, rễ cây dâu tằm, mướp đắng, thiên hoa phấn, củ mài, hoàng liên... sắc uống; dùng dưa hấu, cà rốt, lê, dưa chuột, bí đao, mướp đắng... ép lấy nước uống hằng ngày; dùng con gián hoặc cương tàm sao vàng tán bột uống...

Không dùng thuốc: Là sử dụng các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà dược, cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh... Ví như, chế độ ăn nên trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu, tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân nhĩ, hải tảo, tụy lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm...; thường xuyên dùng các loại trà dược như khổ qua trà, nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà, cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà...; có thể dùng các loại cháo thuốc như cháo tụy lợn, cháo khổ qua, cháo nhị phấn trư đỗ, cháo địa cốt bì ngọc mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân...


Bài chữa bệnh trĩ bằng thuốc đông y

 Bệnh trĩ phát sinh do tình trạng phồng giãn và sung huyết đám rối tĩnh mạch hậu môn trực tràng, hình thành một hay nhiều búi trĩ; tùy theo vị trí giải phẫu và mức độ sung huyết của đám rối tĩnh mạch trĩ trong hoặc trĩ ngoài mà phân thành trĩ nội, trĩ ngoại. Bệnh hay gặp ở cả nam và nữ, lứa tuổi chủ yếu là trung niên và người cao tuổi. Ở Việt Nam bệnh trĩ có tỷ lệ mắc bệnh khá cao từ 30-35% dân số, đứng hàng thứ 3 trong cơ cấu bệnh hậu môn trực tràng.

Có nhiều nguyên nhân và những yếu tố thuận lợi sinh ra bệnh trĩ : 

được tập trung vào 4 nhóm chính:

- Nhóm bệnh lý đường tiêu hóa gây bệnh trĩ : 

Hội chứng lỵ, viêm đại tràng mạn tính, rối loạn tiêu hóa kéo dài, táo bón... khiến cho người bệnh đi ngoài phải rặn nhiều, thời gian đại tiện lâu tạo điều kiện phát sinh bệnh trĩ.

- Sự suy yếu tổ chức nâng đỡ tại chỗ gây bệnh trĩ :

 Do lớp cơ ở dưới niêm mạc hậu môn trực tràng, hệ thống co thắt, dây chằng, cơ nâng bị suy yếu, hệ thống đám rối tĩnh mạch suy yếu sa giãn hình thành búi trĩ.

- Yếu tố cơ học gây bệnh trĩ : 

Thai sản ở phụ nữ, các khối u vùng tiểu khung (u xơ tử cung, u nang buồng trứng, u phì đại tuyến tiền liệt...), bệnh lý tăng áp lực tĩnh mạch cửa, chủ, gây ứ máu ở đám rối tĩnh mạch trĩ.

- Các nguyên nhân khác gây bệnh trĩ :

Chế độ ăn: Ăn nhiều thức ăn cay nóng, kích thích như ớt, hạt tiêu, rượu...

Nghề nghiệp: Ngồi lâu, đứng lâu, lao động nặng nhọc, ngồi xổm, thói quen nhịn đại tiện.

Ngoài ra bệnh trĩ còn mang yếu tố gia đình.

Người mắc bệnh trĩ có các biểu hiện lâm sàng:

Chảy máu:

Đặc điểm: Chảy máu tươi khi đại tiện, tự cầm khi kết thúc cuộc đi ngoài.

Chảy máu là biểu hiện sớm nhất, hay gặp nhất, hình thức chảy máu và số lượng máu chảy rất khác nhau. Lúc đầu chảy máu kín đáo, máu dính theo phân, về sau chảy máu nhỏ giọt hoặc phun thành tia sau mỗi khi rặn đi ngoài. Bệnh diễn biến mạn tính lâu ngày có thể dẫn đến tình trạng suy nhược thiếu máu.

Trĩ sa: Trĩ độ II trở lên, búi trĩ sa ra ngoài hậu môn tạm thời hoặc thường xuyên, đôi khi còn chảy dịch ẩm ướt khó chịu.

Đau: Trĩ nội bình thường không đau mà có cảm giác tức nặng ở hậu môn, chỉ đau khi có biến chứng: trĩ tắc mạch, trĩ nghẹt, trĩ viêm hoặc trĩ kết hợp với một bệnh khác như nứt kẽ, áp xe, rò hậu môn, viêm ống hậu môn...

Trĩ có nhiều thể khác nhau, được chia thành trĩ nội, trĩ ngoại, trĩ hỗn hợp và trĩ biến chứng:

Kết quả điều trị phụ thuộc vào chỉ định cho từng loại trĩ và mức độ nặng, nhẹ của bệnh.

Theo y học cổ truyền, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ không chỉ do bệnh lý tại chỗ mà còn do yếu tố toàn thân như âm dương thiếu cân bằng, tạng phủ, khí huyết hư tổn, cùng với thấp, nhiệt, phong, táo, ăn uống, nghề nghiệp... gây ra.

Trĩ có nhiều thể tùy thể bệnh với các chứng trạng mà dùng bài thuốc chữa khác nhau:

Bài thuốc chữa bệnh trĩ Thể thấp nhiệt ở đại tràng

Triệu chứng: Đại tiện ra máu, sắc đỏ tươi, số lượng nhiều hoặc ít, trĩ sa theo độ, đau nóng rát hậu môn, đại tiện táo hoặc đau quặn bụng, mót rặn, đại tiện bí khó đi, tiểu tiện vàng, sẻn. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Mạch huyền, tế, sác.

Bài thuốc: Hòe hoa 15g, kinh giới tuệ 10g, chỉ xác 10g, hoàng bá 10g, trắc bá diệp (sao cháy) 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài thuốc chữa bệnh trĩ Thể tỳ hư không nhiếp huyết

Triệu chứng: Đại tiện ra máu tươi, sắc nhạt màu, lượng có thể nhiều ít khác nhau, kèm theo sắc mặt kém tươi nhuận, hồi hộp mệt mỏi, ăn ngủ kém, phân táo lỏng thất thường, trĩ sa. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế vô lực.

Bài thuốc: Hoàng kỳ 30g, đẳng sâm 20g, bạch truật 12g, bạch linh 12g, đương quy 12g, trần bì 5g, mộc hương 10g, tiên hạc thả 30g, chế hoàng tinh 30g. Sắc uống ngày một thang.

Bài thuốc chữa bệnh trĩ Thể khí hư hạ hãm

Triệu chứng: Thường thấy ở bệnh nhân có tuổi, mắc bệnh lâu ngày, trĩ sa không tự co, kèm theo sa niêm mạc trực tràng. Chảy máu tươi khi đại tiện ít hơn, sắc nhạt màu, kèm theo tinh thần mệt mỏi suy nhược, hụt hơi, ngại nói, sắc mặt kém tươi nhuận, hồi hộp, váng đầu, ăn ngủ kém, đại tiện phân nát, tiểu tiện trong dài. Chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng mỏng. Mạch trầm tế nhược.

Bài thuốc: Sài hồ 8g, bạch truật 12g, trần bì 6g, thăng ma 10g, đẳng sâm 15g, đương quy 12g, hoàng kỳ 10g, chích cam thảo 5g.

Các bài thuốc trên sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trong ngày, uống liền 3 tuần (21 ngày).

Những kiêng kỵ khi uống thuốc đông y

 Có người cho rằng: “Các thuốc bằng cây cỏ không độc, dùng nhiều một chút chẳng việc gì”. Nói như vậy là không đúng, thông thường thuốc có 2 tác dụng: tác dụng chính là dùng để chữa bệnh, nhưng thuốc cũng còn có những tác dụng phụ (tác dụng không mong muốn) có hại cho sức khỏe. Do vậy, khi dùng thuốc Đông y, người bệnh cũng cần phải thận trọng.

Theo lý luận kiêng kỵ khi uống thuốc đông y

Thuốc có tính năng 4 khí, 5 vị tức là hàn, nhiệt, ôn, lương (4 loại tính dược khác nhau) và chua, đắng, cay, ngọt, mặn (5 vị đều có đường đi khác nhau). Dùng thuốc để chữa bệnh là lấy cái thiên lệch của thuốc để chữa cái thiên lệch của cơ thể con người do bệnh tật gây ra. Vì vậy, không thể có một thứ dược phẩm nào chỉ có trăm điều ích, không có một điều hại. Ví dụ như cam thảo là một vị thuốc đi đến được 12 kinh, là vị thuốc làm tá sứ rất bình hòa trong Đông y, nó có tác dụng bổ trung ích khí, giải độc, xua đờm, có thể chữa các bệnh thuộc loại khí ở giữa không đủ, ho nhiều đờm, ung nhọt độc, nhưng nếu uống lâu dài cũng sẽ dẫn đến tình trạng bụng khó chịu, dạ dày trướng, không muốn ăn. Nhân sâm là vị thuốc có công dụng đại bổ nguyên khí, bồi dưỡng dạ dày, sinh tân dịch, có thể điều trị các chứng khí huyết hư tổn, tiêu khát (đái tháo đường), tân dịch bị tổn thương, tim loạn nhịp hồi hộp, mất ngủ, sức khỏe sa sút; nhưng những người thể trạng dương rất cao, thực nhiệt ngoại cảm, uống vào thì càng dễ “bốc hơi”, có thể dẫn đến phiền táo, buồn bực không yên, chảy máu mũi. Vì vậy, một vị danh y đời Thanh là Từ Đại Xuân cho rằng dùng nhân sâm không đúng sẽ gây tai họa. Hoàng liên là vị thuốc quan trọng để tả hỏa giải độc, làm sạch nhiệt, táo và thấp; có thể chữa các bệnh thấp, ôn, nhiệt; bệnh lỵ do nhiệt và đau bụng; tim cồn cào, nôn mửa; mắt đau sưng, ung nhọt lở độc; nhưng nếu dùng lâu dài thì cũng gây ra đau dạ dày, chán ăn. Điều này y học phương Đông gọi là nguyên nhân “do đẳng và hàn hại đến tì vị”. Vì vậy, người bệnh rất cần biết một số kiến thức về kiêng kỵ trong sử dụng thuốc Đông y.

Một số nguyên tắc kiêng kỵ khi uống thuốc đông y

- Đau bụng đi tướt: Kiêng dùng quả ngưu bàng, tri mẫu, thiên hoa phấn, chi tử (quả dành dành), sinh địa, tử thảo, sơn đậu căn, lô hội, binh lang (hạt cau), trúc lịch (nước ép ở đọt tre), hoàng dược tử, bá tử nhân, mật ong, nhục thung dung, cùi hồ đào, tỏa dương, đương quy, thục địa, thủ ô, a giao, thiên đông, hoàng tinh, bách hợp, câu khởi tử, quả dâu, hạn liên thảo, trinh nữ tử, miết giáp (ba ba), vừng đen.

- Tì vị hư hàn, cần thận trọng khi dùng thạch cao, tri mẫu, thiên hoa phấn, hoàng cầm, hoàng bá, long đảm thảo, khổ sâm, sinh địa, huyền sâm, đại thạch diệp, thanh đại, sơn đậu căn, lô hội, chỉ thực, xuyên luyện tử, hoàng dược tử, từ thạch, mạch môn đông, thiên môn đông, hạn liên thảo, quy bản (mai rùa), ba ba.

Khi dùng thuốc Đông y, người bệnh cũng cần phải thận trọng.

- Ra mồ hôi trộm: kiêng dùng ma hoàng.

- Tăng huyết áp, kiêng dùng ma hoàng, thận trọng trong việc dùng dương kim hoa.

- Người có bệnh về động mạch vành, tim đập quá nhanh, kiêng dùng ma hoàng.

- Khi bị nôn, kiêng dùng thương nhĩ tử, hoàng dược tử, hoàng liên (nếu là hư hàn).

- Ăn uống không biết ngon miệng (chán ăn), kiêng dùng chi tử, hoàng cầm, huyền sâm, sơn đậu căn, lô hội, phòng kỷ, a giao và ba ba.

- Các chứng xuất huyết: Kiêng dùng quế chi (nhiệt mạnh) nha đảm tử (xuất huyết dạ dày và ruột), nhục quế (huyết nhiệt), tam thất (trường hợp âm hư có nhiệt), xuyên khung, tạo giác (bồ kết) khạc ra máu, lộc nhung (nhung hươu – nếu là dương nhiệt).

- Các chứng huyết hư: Kiêng dùng cào bản, thương nhĩ tử, ngân tử hồ, toàn hạt.

- Trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, kiêng dùng đại hoàng, phan tử diệp, mạch nha.

- Thời gian hành kinh, cẩn thận trong việc dùng quế chi, đại hoàng, phan tử diệp.

- Khi kinh nguyệt ra quá nhiều, cẩn thận trong khi dùng đan bì, xuyên khung, tam lang, nga truật, ngưu tất.

- Khi bị thong manh mắt, kiêng dùng thạch dương tử, dương kim hoa, thục địa.

- Khi đầy bụng: Kiêng dùng sinh địa, hoài sơn, đại táo, đường mạch nha, mật ong, đương quy, thục địa, cùi long nhãn, hoàng tinh, kha tử.

- Khi bị thũng nước do tỳ hư, kiêng dùng nha đảm tử, hoàng dược tử, chu sa, đại phong tử.

- Sốt do cảm hàn bên ngoài, kiêng dùng địa cốt bì, ngân tử hồ, dương kim hoa, hoàng kỳ, đông trùng hạ thảo, thạch môn đông, hạt ngũ vị, ô mai, ngũ bội tử, rễ ma hoàng, kha tử.

- Người hư nhược (gầy yếu) cẩn thận trong khi dùng cam toại, đại kích, nguyên hoa, ba đậu, thiên kim tử, uy linh tiên, dương kim hoa, thường sơn, đảm phàn, lê lô, minh phàn, ban miệu.

- Người khí hư, kiêng dùng thanh bì, hạt cải củ.

- Da dễ bị dị ứng, kiêng dùng hạt cải trắng.

- Viêm loét dạ dày, cần thận trọng khi dùng viễn chí, tạo phân.

- Chứng thực, chứng nhiệt kiêng dùng nhân sâm.

- Phụ nữ có thai kiêng dùng đan bì, thận trọng khi dùng quế chi, tê giác, ngưu bàng, mộc thông, thông thảo, hạt đông quỳ, gừng khô, chỉ thực, dương kim hoa, đại giả thạch, băng phiến, quy bản, xích thạch chi, xạ can, đại hoàng, mang tiêu, phan tả diệp, lô hội, cam toại, ba kích, nguyên hoa, ba đậu, quả khiên ngưu, thương lục, thiên kim tử, cù mạch, phụ tử, ô đầu, bồ hoàng, nhu hương, một dược, tam lăng, nga truật, hổ tượng, đào nhân, ngưu tất, xuyên sơn giáp.- Người bị bệnh thận kiêng dùng thu thạch.

Bài thuốc trị chứng mất tiếng trong đông y

 Thất âm (mất tiếng) là triệu chứng thường gặp đi kèm với các trường hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Bệnh nhân thấy tiếng nói thều thào khó nghe có khi mất tiếng không nói được nữa. Khàn tiếng thường xuất hiện trong thời gian ngắn rồi sẽ tự khỏi.Nhưng đôi khi cũng kéo dài dẫn đến mất tiếng nếu không chú ý điều trị lúc khàn tiếng.

Nguyên nhân theo y học hiện đại là do nói nhiều, nói liên tục trong một thời gian làm căng quá mức các cơ nhỏ của thanh quản.

- Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, cảm lạnh, viêm họng... dẫn đến viêm thanh quản cấp tính làm tổn thương dây thanh âm.

Theo lý luận Đông y thì phổi là cửa của thanh âm; thận là gốc của thanh âm. Do đó bệnh thất âm (mất tiếng) có quan hệ mật thiết với phổi và thận.

Khi điều trị bệnh mất tiếng cần phân biệt rõ chứng hư, chứng thực. Chứng thực phần nhiều do ngoại tà làm trở ngại công năng của phổi; còn chứng hư phần nhiều do khí của tân dịch không đủ.

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Chứng thực:

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Ngoại cảm phong hàn: 

Tiếng nói khàn không rõ, nóng sốt ít, sợ lạnh, ho có đờm, mũi tịt, nặng tiếng, rêu lưỡi trắng mỏng. Nếu có cả khát nước, đau họng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù sác thì đó là chứng hỏa bị hàn bao bọc.

Phép chữa: Sơ tán phong hàn:

Bài 1: “Kim phí thảo tán”: Kim phí thảo 12g, tiền hồ 8g, kinh giới 10g, tế tân 8g, bán hạ 10g, cam thảo 4g, gừng sống 3 lát. Nước vừa đủ sắc còn 1/2 uống ấm

Bài 2: Kinh giới 12g, tang diệp 12g, tang bạch bì 12g, địa cốt bì 12g, tía tô 8g, bán hạ chế 8g. Sắc uống như bài trên.

Châm cứu: Tả: Thiên đột, phong môn, xích trạch, phong trì, hợp cốc.

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Đàm và nhiệt ngăn trở: 

Tiếng nói nặng không phát ra được, đờm nhiều màu vàng đặc, miệng đắng, họng khô, rêu lưỡi vàng nhợt. Mạch hoạt sác.

Phép chữa: Thanh phế hóa đàm. Dùng: “Nhị mẫu tán” gia vị: Tri mẫu 12g, bối mẫu 12g, cát cánh 10g, ngưu bàng 10g. Nước vừa đủ sắc uống ấm.

Bài 2: Tang bạch bì 12g, lá tre 12g, thanh bì 8g, cát cánh 8g, thổ bối mẫu 10g, trúc nhự 12g, nam tinh chế 6g, gừng 4g. Sắc uống như trên.

Bài 3: “Nhị trần thang” gia giảm: Trần bì 8g, bán hạ chế 8g, thạch xương bồ 12g, cát cánh 8g, phục linh 8g, cam thảo 6g, tri mẫu 12g, bối mẫu 8g. Tất cả phơi khô, tán bột dùng dần. Ngày uống 2 lần mỗi lần 5g.

Châm cứu: Tả: Trung phủ, xích trạch, hợp cốc, túc tam lý, phong long, tam âm giao.

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Chứng hư:

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Phế âm hư: 

Người gầy, họng ráo, ho khan, khản tiếng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít. Mạch tế sác.

Phép chữa: tư âm dưỡng phế.

Bài 1: Sa sâm 12g, thiên môn 12g, mạch môn 12g, tang bạch bì 8g, bố chính sâm 12g, ngưu bàng tử 8g, sinh địa 8g, đan bì 6g, địa cốt bì 8g, trúc lịch 10g. Ngày uống 1 thang.

Bài 2: “Thanh táo cứu phế thang”: Tang diệp 12g, thạch cao 12g, cam thảo 6g, mạch môn 12g, tỳ bà diệp 12g, hạnh nhân 12g, đảng sâm 16g, a giao 8g, gừng 4g. Sắc uống ngày 1 thang.

Châm cứu: Bổ: Trung phủ, đản trung, thiên đột, hợp cốc.

Bài thuốc trị chứng mất tiếng do Thận âm hư: 

Họng khô, khàn tiếng, hư phiền không ngủ, đau lưng, mỏi gối, ù tai, hoa mắt, chóng mặt, lòng bàn tay, bàn chân nóng, chất lưỡi đỏ sẫm. Mạch hư, tế sác.

Phép chữa: Bổ thận âm, nạp phế khí, tuyên phế.

Bài 1: Mạch môn, thiên môn, thạch hộc đều 12g, a giao, tô tử, bạc hà, ngưu bàng tử đều 8g, thục địa, câu kỷ tử đều 12g. Sắc uống nóng, ngày 1 thang.

Bài 2: “Thất vị đô khí hoàn”: Thục địa, sơn thù, phục linh đều 12g, hoài sơn 16g, trạch tả, đơn bì, ngũ vị tử đều 8g. Sắc uống như bài trên.

Ngoài ra có khi vì la hét to hoặc nói quá nhiều hại đến phế khí mà sinh mất tiếng thì dùng bài “cát cánh thang”: Cát cánh 6g, cam thảo 6g, quất hồng 4g, ý dĩ 20g, bạch cập 4g, đình lịch sao mật 4g, bối mẫu 8g, kim ngân hoa 20g. Sắc uống như trên.

Châm cứu: Bổ: Thận du, thái khê, nhiên cốc, hợp cốc, thiên đột.

Món ăn, cháo thuốc chữa bệnh mất tiếng trong đông y:

Bài 1: Nhân sâm 12g, xuyên bối mẫu 12g, đông trùng hạ thảo 12g, lê 2 trái, thịt lợn nạc 100g.

Quả lê rửa sạch gọt bỏ vỏ, bỏ tim, thái lát các vị khác rửa sạch, tất cả bỏ vào nồi đất, đổ nước vừa phải, đun trong 4 giờ đồng hồ rồi cho muối gia vị là được.

Ăn canh này có tác dụng tư bổ phế thận, trị mất tiếng, phòng ngừa viêm khí quản, phế quản. Người bị âm hư hỏa vượng, khàn tiếng, cổ họng sưng đau, ho có đờm lẫn máu, tâm phiền, khí táo, mất ngủ đều dùng tốt.

Bài 2: Đảng sâm 250g, sa sâm 120g, long nhãn 120g, mật ong vừa đủ.

Cho vào nồi đất 3 vị thuốc, nước vừa đủ đun 20 phút, rót lấy nước thuốc lần 1. Lại cho nước vào như lần đầu, sắc lấy nước thứ 2. Hợp 2 nước lại, đun nhỏ lửa, cô đặc, thêm mật ong, rồi đun sôi, để nguội cho vào bình đậy kín đùng dần... Ngày uống 2 lần sáng, tối, mỗi lần 50ml.

Tác dụng: Thanh phế nhiệt, bổ nguyên khí, tăng thanh âm, bổ cân lực, trị cơ thể hư nhược, phiền khát, ho khan, khản tiếng.

Bài 3: Bắp cải khô (hoặc rau cải khô) 30-50g, gạo lức 50g. Hai vị đãi sạch cho vào nồi với nửa lít nước, đun to lửa cho sôi rồi chuyển đun nhỏ lửa ninh nhừ thành cháo, cho gia vị mà dùng.

Tác dụng: Dưỡng âm, kiện vị, hóa đờm, hạ khí, trị viêm họng mất tiếng.

Bài 4: Dưa chuột tươi 400g, gừng tươi 15g, hành 10g, tỏi 15g, hoa hiên 15g, đường trắng 40g, trứng gà 2 quả, dầu cải 250ml. Rửa gừng sạch, thái lát mỏng, hành rửa sạch băm vụn, tỏi bóc vỏ thái mỏng, hoa hiên ngâm nở nhặt bỏ cuống, dưa chuột rửa sạch cắt 2 đầu tỉa thành hoa rồi lấy 5g muối ướp một lúc để ráo nước; trứng đập vào bát đánh tan rồi cho xì dầu, bột ngọt, đường, rượu, khuấy đều. Bắc nồi đổ dầu cải đun nóng 7 phần, lấy đũa gắp các miếng dưa chuột nhúng vào bát trứng thả vào chiên vàng mặt, vớt ra đặt vào bát. Bắc nồi khác cho 1 ít dầu cải phi thơm gừng, tỏi, đổ nước dịch hoa hiên, cho tiếp dưa chuột, bột, làm sánh nước, bắc ra là được. Ăn kèm trong bữa ăn. Tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, bổ huyết, trị chứng lợi họng đau mất tiếng.

Bài thuốc trị bệnh gút trong đông y

 Bệnh gút trong y học cổ truyền còn gọi là bệnh thống phong. Các triệu chứng bệnh thống phong hầu hết là cấp tính, xảy ra một cách đột ngột, thường vào ban đêm, không có triệu chứng báo trước như đau khớp dữ dội. Thống phong thường ảnh hưởng những khớp lớn trên ngón chân cái, nhưng cũng có thể ở khớp bàn chân, mắt cá chân, gối, bàn tay, cổ tay,... Cơn đau điển hình có thể kéo dài 5-10 ngày rồi ngưng. Khó chịu sẽ giảm dần dần sau 1-2 tuần.

Nguyên nhân do chính khí suy yếu, tấu lý sơ hở, tà khí thừa cơ xâm nhập cơ thể, lưu lại ở kinh lạc, gân cơ, xương khớp làm cho khí huyết không vận hành được mà sinh ra bệnh. Bài viết dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y với bệnh gút thể cấp tính chủ yếu dùng phép thông kinh lạc, thanh nhiệt, khu phong, trừ thấp, hành khí, hoạt huyết.

Biểu hiện sưng đau các khớp, cơ, xương. Đau cố định dữ dội, ít hoặc không di chuyển, chân tay lạnh, rêu lưỡi trắng. Mạch phù, trì hoặc nhu hoãn dùng một trong số bài thuốc sau:

Bài thuốc trị bệnh gút trong đông y

Bài 1: Độc hoạt 12g, đương quy 12g, ngưu tất 8g, tang ký sinh 8g, thục địa 12g, nhân sâm 8g, tần giao 8g, thược dược 12g, phục linh 12g, phòng phong 8g, xuyên khung 6g, cam thảo 4g, tế tân 4g, đỗ trọng 8g, quế tâm 6g. Sắc với 1.700ml nước lọc bỏ bã, lấy 300ml. Uống ấm chia đều 5 lần, ngày uống 4 lần, tối uống 1 lần .

Bài 2: thổ phục linh 16g, ké đầu ngựa 16g, cỏ hy thiêm 16g, rễ cây vòi voi 16g, uy linh 12g, tỳ giải 12g, ý dĩ 12g, cam thảo đất cả cây khô 12g, quế chi 8g, bạch chỉ 8g. Rễ vòi voi sao vàng. Các vị trên sắc với 600ml nước còn 150ml, chia làm 2 lần, uống trước 2 bữa ăn chính, đến khi bệnh khỏi.

Bài 3: phòng phong 12g, khương hoạt 12g, bạch thược 12g, đương quy 12g, tần giao 8g, quế chi 8g, phục linh 8g, ma hoàng 8g, cam thảo 6g. Ngày một thang. Sắc với 600ml nước còn 150ml, chia đôi, uống trước khi ăn.

Bài 4: thạch cao 40g (sắc trước ), tri mẫu 12g, quế chi 6g, bạch thược 12g, xích thược 12g, dây kim ngân 16g, phòng kỷ 10g, mộc thông 12g, hải đồng bì 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày một thang.

Bài 5: nhẫn đông đằng 30g; hoàng bá 15g; ý dĩ 30g; thổ phục linh 30g; mao đông thanh 30g; huyền sâm 15g; đương quy 12g; một dược 10g; ngưu tất 15g; phòng kỷ 15g; tần giao 15g; thất diệp liên 30g. Sắc uống mỗi ngày một thang

Bên cạnh việc dùng thuốc sắc (thuốc uống trong), bạn có thể dùng một trong số bài thuốc sau từ thảo dược nghiền thành bột làm thuốc bôi ngoài da

Bài 1: liễu thụ hoa 30g, kim tiền thảo 30g, bồ công anh 30g, thổ phục linh 30g, tử hoa địa đinh 30g, sinh đại hoàng 30g, cho lượng nước vừa đủ, đun trong 30 phút, sau đó rửa chỗ đau.

Bài 2: lá phù dung, sinh đại hoàng, xích tiểu đậu cùng nghiền thành bột mịn theo tỷ lệ 4:6; trộn đều thành cao, bôi ngoài mỗi ngày một lần

Bài 3: trắc bách diệp 30g, đại hoàng 30g, hoàng bá 15g, bạc hà 15g, trạch lan 15g cùng nghiền thành bột, cho thêm mật ong và chút nước quấy thành hồ, bôi bên ngoài.

Bài 4: thảo ô, ổi khương mỗi loại 90g; xích thược, bạch chỉ, thiên nam tinh mỗi loại 30g; nhục quế 15g, nghiền thành bột, trộn thành cao), bôi bên ngoài chỗ đau.

Bài 5: quế xuyên ô, chế thảo ô, mộc qua, hồng hoa mỗi loại 30g, cho thêm 2.500ml nước đun còn 200ml cao, rửa bên ngoài.

Bài thuốc giúp khoẻ mạnh, dồi dào tinh lực

  ​Con người bình thường có âm dương cân bằng. Khi âm hư có nghĩa là phần âm trong cơ thể không đủ. Âm hư trong đời sống tình dục nam giới rất thường gặp. Đông y có những bài thuốc hay để điều trị bệnh chứng này.

Theo y học cổ truyền, để chữa bệnh chứng âm hư (hay chứng dương hư - đã có bài viết trong số báo trước; chứng âm dương lưỡng hư) trong liệt dương, xuất tinh sớm mục tiêu cuối cùng là đưa thể trạng vào sự cân bằng âm - dương. Đông y cho rằng, nếu phần âm của cơ thể nam giới bị hư tổn thì dương sự cũng theo đó mà sa sút, sẽ dẫn đến liệt dương.

Người bị liệt dương (dương nuy, cương cử không đủ cứng để hành sự) thể âm hư do nhiều nguyên nhân gây nên như: bị tà khí nhiệt táo xâm nhập, ăn uống quá nhiều đồ cay nóng, rối loạn tình chí, phòng sự quá độ, lạm dụng các thuốc táo nhiệt... khiến cho tân dịch hao tổn, âm dịch hư suy. Biểu hiện của chứng âm hư thường là người gầy, da khô, người tiều tụy, miệng khô họng khát, thích uống nước lạnh, hay có cảm giác sốt nóng về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, vã mồ hôi trộm, đầu choáng mắt hoa, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện táo kết, chất lưỡi đỏ khô, ít hoặc không có rêu lưỡi...

Các trường hợp dương nuy do âm hư như trên thường kèm theo chứng “tảo tiết” (xuất tinh sớm) và các biểu hiện toàn thân như: người gầy, da khô, mệt mỏi, tinh thần khó tập trung, thần kinh căng thẳng, hay quên, bồn chồn, lo sợ vô cớ, ra mồ hôi trộm, lưng đau gối yếu, gót chân đau nhức, chất lưỡi đỏ, mạch nhanh nhỏ…

Để điều trị chứng bệnh dương nuy này, bài thuốc phải bồi bổ ba tạng: Thận, Tâm, Can. Tâm tốt thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bền dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược dòng tử cung để thụ thai. Can thuộc hành mộc chủ về cân tức là gân.Cân khỏe thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự.

Trong thiên Huyền tẫn phát vi của Hải Thượng Lãn Ông có nói: người bị chứng âm hư sinh bệnh đến 8 - 9 , hỏa suy mà thành bệnh chỉ 1 - 2 phần. Cho nên phải thường xuyên bổ chân âm, làm cho âm dương thăng bằng, thủy chế được hỏa, thủy đưa lên, hỏa tỏa xuống thì con người không bệnh. Cho nên Chu Đan Khê tiên sinh phát minh thuyết bổ thận là chuyên bổ thận âm.

Theo y học cổ truyền, thận là một trong những tạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trạng thái con người như thế nào phần lớn đều do thận quyết định. Thận có ý nghĩa nhiều về sự phát dục, trưởng thành, thọ yểu của con người.

Y học cổ truyền đánh giá rất cao vai trò của thận khí, coi đây là nhân tố quyết định sự sinh trưởng phát dục cho đến sự sinh nòi đẻ giống sau này của cơ thể. Thận khí thịnh và đầy đủ thì răng bền, tóc tốt, gân xương cứng vững chắc, kinh nguyệt đầy đủ, tinh khí dồi dào...

Thận khí suy kiệt thì răng rụng, tóc khô, thân thể hao mòn, kinh nguyệt không còn, tinh khí cạn kiệt... Bởi thế, Hải Thượng Lãn Ông trong cuốn “Châu ngọc cách ngôn” đã viết: “Thận là cội nguồn của tạng phủ, là gốc rễ của 12 kinh mạch, là cơ sở của sinh mệnh, là bể chứa tinh huyết”.

Bài thuốc điều trị thận âm hư giúp khoẻ mạnh, dồi dào tinh lực: 

thục địa 320g,hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g, nhục quế 40g, nhục thung dung 200g, lộc nhung 120g, kỷ tử 160g.

Trong đó: thục địa, nhục thung dung, kỷ tử: bổ thận, sinh tinh; lộc nhung: bổ tinh huyết. Các vị thuốc khác có tác dụng hỗ trợ bổ thận cường dương, sinh tinh huyết. Bài thuốc này dùng để làm hoàn mềm.

Một vài vị thuốc đáng lưu ý nhất: nhục thung dung và thục địa. Theo Đông y, nhục thung dung có vị ngọt, mặn, tính ấm; vào 2 kinh thận, đại tràng; có tác dụng bổ thận, ích tinh, nhuận táo, hoạt tràng. Chủ trị nam giới liệt dương, nữ giới không có thai, đới hạ (nhiều khí hư), băng lậu, lưng gối lạnh đau, cơ bắp không có sức, huyết khô tiện bí.

Nghiên cứu hiện đại cho thấy, hàm lượng hoạt chất sinh học trong nhục thung dung rất phong phú, có tác dụng như một loại hoóc-môn sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận.

Trong khi đó, thục địa bổ thận, điều tinh, sinh huyết, là “thuốc thánh”, để bổ âm là đầu vị.

Bài thuốc này bồi dưỡng ngũ tạng, cường dương và đặc biệt là sinh tinh, làm cho tinh khí mạnh mẽ. Do vậy, bài thuốc vừa giúp cho nam giới vừa thỏa mãn trong chốn phòng the vừa điều trị hiếm muộn hiệu quả cao cho những trường hợp tinh trùng thiếu, hoặc không có; tinh trùng cử động kém...

Thận có ý nghĩa nhiều về sự phát dục, trưởng thành, thọ yểu của con người.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não trong đông y

 Nhiều năm trước đây, người ta cho rằng “tai biến mạch máu não là cách kết thúc cuộc đời người già”. Ngày nay, với phương tiện chẩn đoán hiện đại và nhiều loại thuốc mới có hiệu quả là những lý do giúp cho dự phòng và điều trị có hiệu quả tai biến mạch máu não.

Tai biến mạch máu não là hậu quả của những bệnh tim mạch như tăng huyết áp, vữa xơ động mạch, rối loạn nhịp tim trong các bệnh về van tim. Tai biến mạch máu não gồm 3 loại: Cơn thiếu máu thoáng qua; nhũn não; xuất huyết não.

- Cơn thiếu máu thoáng qua thường là tai biến thoáng qua kéo dài 5-10 phút, khu trú, không để lại di chứng. Bệnh nhân cảm thấy giảm cơ lực hay liệt nhẹ, nói khó, chóng mặt.

- Nhũn não là do tắc một nhánh động mạch não thường xuất hiện đột ngột gây liệt nhẹ sau đó dần dần nặng lên dẫn đến hôn mê và có thể tử vong.

- Xuất huyết não là do vỡ một động mạch trong não. Thường xảy ra đột ngột với các dấu hiệu hôn mê ở nhiều mức độ khác nhau, liệt nửa người, liệt nửa mặt. Ngoài ra còn tùy vị trí chảy máu trong não mà có những triệu chứng khác nhau. Xuất huyết não thường nặng hơn, dễ tử vong ngay, tiên lượng xấu hơn. Bệnh khởi phát đột ngột, phần lớn gây tử vong nhanh chóng hoặc để lại di chứng tàn phế nghiêm trọng.

Tai biến mạch máu não thuộc phạm trù “trúng phong” của y học cổ truyền. Qua giai đoạn nguy kịch thường để lại những di chứng nặng nề cho người bệnh, gia đình và xã hội như: “bán thân bất toại” (liệt nửa người), “khẩu nhãn oa tà” (miệng méo, mắt xếch), đại tiểu tiện không tự chủ...

Y học cổ truyền có những bài thuốc điều trị di chứng do tai biến mạch máu não, xin giới thiệu để mọi người cùng tham khảo và kết hợp cùng y học hiện đại điều trị các di chứng chứng này.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não gây Bán thân bất toại

Là di chứng nặng nề nhất, làm cho người bệnh không hoặc khó khăn trong đi lại, cử động tay chân. Tùy theo nguyên nhân mà cách điều trị có khác nhau.

- Do khí huyết hư không đủ nuôi dưỡng cơ nhục, làm trở ngại kinh lạc thì phải dưỡng khí, ích huyết, ôn kinh bằng thuốc bổ trung ích khí gia phụ tử uống với thất vị đại hoàng hoàn.

Bài Bổ trung ích khí: Hoàng kỳ 20g, cam thảo 8g, nhân sâm 12g, đương quy 12g, trần bì 10g, thăng ma 4g, sài hồ 4g, bạch truật 12g, phụ tử 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Cho 600ml sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.

Bài Thất vị đại hoàng toàn: thục địa 320g, sơn thù 160, phục linh 120g, sơn dược 160g, đơn bì 120g, nhục quế 40g, trạch tả 120g. Tất cả các vị tán bột mịn, hoàn viên 4g, mỗi lần uống 2-3 viên với thang Bổ trung ích khí gia phụ tử.

- Do phong tà làm tắc mạch (mạch tý) thì phải thông dương, ích khí, điều hòa dinh vệ và cho uống bài: hoàng kỳ, quế chi ngũ vật thang. Hoàng kỳ 16g, bạch thược 16g, sinh khương 16g, quế chi 12g, đại táo 5 quả. Sắc uống ngày 1 thang, cho 600ml nước sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não gây Rối loạn ngôn ngữ

 Nếu phong đờm ở họng gây nên khó nói, nói ngọng thì phải khu phong, trừ đờm, thông khiếu, cho uống bài Thần tiên giải ngữ đơn: Bạch phụ tử 4g, xương bồ 12g, viễn chí 8g, thiên ma 8g, toàn yết 4g, khương hoạt 12g, nam tinh 6g, mộc hương 4g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang, cho 600ml nước, sắc còn 200ml chia uống 3 lần trong ngày.

- Nếu do thận khí hư suy, tính khí không lên được gây nói khó, nói ngọng thì cho uống Địa hoàng ẩm tử: Thục địa 16g, ba kích 16, sơn thù 12g, nhục thung dung 12g, hắc phụ tử 8g, quan quế 8g, thạch giải 16g, phục linh 12g, thạch xương bồ 12g, viễn chí 8g, mạch môn 12g, ngũ vị tử 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Cho 750ml nước, sắc còn 250ml chia 3 lần uống trong ngày.

Chú ý: Người tăng huyết áp không được uống bài thuốc này.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não gây Tiểu tiện không tự chủ (do thận hư)

Phải tư bổ thận âm và bổ thận dương, dùng bài thuốc Địa hoàng ẩm tử (như trên).

Chú ý: Người tăng huyết áp không được uống bài thuốc này.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não gây Đại tiện không tự chủ

Phải ôn bổ mệnh môn, chỉ tả sát trường, dùng bài thuốc Tứ thần hoàn: Nhục đậu khấu 50g, ngũ vị tử 80g, phá cổ chỉ 160g, ngô thù du 40g. Tất cả các vị tán mịn. Sinh khương, gừng tươi 320g, đại táo 100 quả đồ chín lấy thịt quả giã nhuyễn trộn đều với bột mịn các vị thuốc trên hoàn thành viên, mỗi viên 3g. Ngày uống 3 lần vào lúc đói, mỗi lần 5 viên.

Bài thuốc trị di chứng tai biến mạch máu não gây Chóng mặt ù tai

Phải bình can tiêm dương và dùng bài Thiên ma câu đằng ẩm: Thiên ma 8g, câu đằng 16g, thạch quyết minh 20g, tang ký sinh 12g, sơn chi 12g, hoàng cầm 12g, ngưu tất 12g, đỗ trọng 12g, ích mẫu 12g, dạ giao đằng 20g, phục thần 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Cho 750ml nước, sắc còn 250ml chia uống 3 lần trong ngày